Lịch nghiệm thu đề án khoa học cấp ĐHQG-HCM tháng 06/2025 – Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
Stt | Tên đề án khoa học |
1 | Nghiệm thu đề án khoa học cấp Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh (ĐHQG-HCM) với thông tin cụ thể như sau: Tên đề án: Đầu tư giáo dục và định hướng nghề nghiệp cho học sinh cấp 3 của các hộ gia đình vùng Tây Nam Bộ – trường hợp tỉnh An Giang Chủ nhiệm đề án: PGS. TS. Huỳnh Quốc Thắng Đơn vị: Trường Đại học KHXH&NV, ĐHQG-HCM Mã số: ĐA2024-18b-01 Địa điểm: Trường Đại học KHXH&NV, ĐHQG-HCM Quyết định nghiệm thu số …../QĐ-ĐHQG ngày ….. /…../2025 của Giám đốc ĐHQG-HCM; Chủ tịch Hội đồng: Tóm tắt Đề án khoa học Đầu tư cho giáo dục (ĐTGD) và định hướng nghề nghiệp (ĐHNN) và có vai trò cốt yếu trong việc phát triển nguồn nhân lực cho đất nước đảm bảo sự phát triển cân bằng, hài hòa, ổn định và bền vững các vùng miền. Vùng Tây Nam Bộ đóng góp cho cả nước nhiều nguồn lực quan trọng, tuy đã có những bước phát triển về kinh tế-xã hội từ sau thời kỳ đổi mới và hội nhập nhưng vẫn còn chưa đủ mạnh và chưa cân đối, một phần do ảnh hưởng của nguồn nhân lực. Đề án tìm hiểu sâu thực trạng ĐTGD và ĐHNN cho học sinh trung học phổ thông (THPT) trong các hộ gia đình ở tỉnh An Giang hướng đến các mục tiêu: (1) Xác định/xây dựng Cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu; (2) Thực trạng và đặc điểm của việc ĐTGD và ĐHNN cho học sinh THPT của các hộ gia đình Tỉnh An Giang; (3) Xu hướng phát triển ĐTGD và ĐHNN cho hoc sinh THPT các hộ gia đình Tỉnh An Giang và (4) Phương hướng và giải pháp thúc đẩy ĐTGD và ĐHNN cho học sinh THPT tỉnh An Giang-Tây Nam Bộ. Đề án nghiên cứu đã cho thấy những kết quả tiêu biểu như sau: (1) Về nhận thức, nhìn chung các gia đình hiện nay có ý thức cao trong việc ĐTGD và ĐHNN nhằm nâng cao trình độ học vấn và tăng cơ hội tìm kiếm việc làm cho con em cả nam lẫn nữ trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; tuy nhiên, các gia đình có xu hướng lựa chọn các ngành nghề “truyền thống” như giáo viên, công an, quân đội, ngân hàng…. (2) Về thực trạng, việc đầu tư giáo dục giữa vùng thành phố và các vùng nông thôn tương đối nhất quán trong quyết tâm của PHHS (xuất phát từ tình yêu thương và tinh thần trách nhiệm) và sự lựa chọn duy lý (muốn con cái ở gần, không để con cái vất vả, “ăn chắc mặc bền”, v.v..); tuy nhiên, các nguồn thông tin trong hướng nghiệp chưa chính thống và chưa đầy đủ (thường chỉ qua thầy cô đứng lớp, qua họ hàng, v.v.) đã kéo theo hệ quả nói trên. Tính duy tình trong nhận thức và quyết tâm của PHHS đã dẫn đến hệ quả lựa chọn mang tính duy cảm (cảm tính, thiếu tính logic và chưa phù hợp với chiến lực phát triển nguồn nhân lực quốc gia). Trường Đại học An Giang và các trường THPT tỉnh An Giang ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc tư vấn nghề nghiệp cho học sinh với chương trình hướng nghiệp mới tuy còn hạn chế năng lực và kinh nghiệm, công cụ tư vấn. (3) Xu hướng chung và dự báo tương lai cho thấy nhiều gia đình đang và dự kiến sẽ tiếp tục đầu tư nguồn lực giáo dục đại học của con em theo các ngành nghề quen thuộc như trước nếu chưa nắm bắt đầy đủ và hiệu quả về chính sách đầu tư phát triển kinh tế, phát triển nguồn nhân lực quốc gia và các thông tin hướng nghiệp chính thống. (4) Về giải pháp, cần có sự phối hợp đồng bộ của gia đình, nhà trường với các ban ngành đoàn thể xã hội, đội ngũ tư vấn hướng nghiệp; nâng cao hiệu quả hoạt động của thiết chế và hoàn thiện các thể chế, cơ chế đặc thù. Vai trò quản lý nhà nước trong giáo dục cần được thúc đẩy tiên phong, trong đó công tác phổ cập thông tin chiến lược, chính sách quốc gia trong phát triển kinh tế – xã hội trong thời gian tới, công tác thống kê, dự báo và công bố dữ liệu quốc gia về nguồn nhân lực và thị trường việc làm cần thực hiện thường xuyên để hỗ trợ PHHS và bản thân học sinh nghiên cứu, lựa chọn tốt hợn cho ĐTGD và ĐHNN. |
2 | Nghiệm thu đề án khoa học cấp Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh (ĐHQG-HCM) với thông tin cụ thể như sau: Tên đề án: Di sản văn học, nghệ thuật miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954-1975: đặc điểm, tác giả, tác phẩm Chủ nhiệm đề án: PGS.TS. Lê Thị Ngọc Điệp Đơn vị: Trường Đại học KHXH&NV, ĐHQG-HCM Mã số: ĐA2024-18b-02 Địa điểm: Trường Đại học KHXH&NV, ĐHQG-HCM Quyết định nghiệm thu số …../QĐ-ĐHQG ngày ….. /…../2025 của Giám đốc ĐHQG-HCM; Chủ tịch Hội đồng: Tóm tắt Đề án khoa học Văn học, nghệ thuật miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954-1975 là một bộ phận không thể tách rời của văn học, nghệ thuật dân tộc. Nền văn học, nghệ thuật này, trong bối cảnh lịch sử cụ thể đã có những đặc điểm, những đóng góp và hạn chế đối với lịch sử văn hóa dân tộc. Đất nước đã thống nhất và ngày càng đổi mới hiện đại, hội nhập sâu rộng với thế giới. Theo đà phát triển của kinh tế, văn hóa, văn học nghệ thuật cũng vận động đổi mới để hội nhập. Việc nhìn nhận, tổng kết đánh giá văn học, nghệ thuật sau 50 năm ngày đất nước thống nhất (30/4/1975-30/4/2025) đã được Đảng và Nhà nước quan tâm một cách sâu sắc. Đề án khoa học “Di sản văn học, nghệ thuật miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954-1975: đặc điểm, tác giả, tác phẩm” trên tinh thần “gạn đục khơi trong”, hướng đến sự hoà hợp dân tộc nhằm tạo nên sức mạnh văn hóa để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, mục tiêu độc lập dân tộc và giữ gìn bản sắc văn hóa; việc kiểm kê di sản văn học, nghệ thuật miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954-1975 trên các bình diện tư liệu tác giả, tác phẩm, chỉ ra những đặc điểm của nó một cách khoa học, đồng thời còn cho thấy chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước về việc xây dựng nền văn học nghệ thuật theo hướng hiện đại, đậm đà tính dân tộc. Báo cáo tổng kết Đề án gồm 9 chương: (1) Tổng quan các vấn đề lịch sử, xã hội và đặc điểm văn học, nghệ thuật miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954-1975; (2) Đặc điểm tác giả, tác phẩm văn xuôi ở miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954-1975; (3) Đặc điểm tác giả, tác phẩm thơ ca ở miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954-1975; (4) Đặc điểm tác giả, tác phẩm nghiên cứu, lý luận, phê bình văn học nghệ thuật ở miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954-1975; (5) Đặc điểm tác giả, tác phẩm kịch bản văn học ở miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954-1975; (6) Đặc điểm tác giả, tác phẩm sân khấu và điện ảnh ở miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954- 1975; (7) Đặc điểm tác giả, tác phẩm văn học dịch ở miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954-1975; (8) Đặc điểm tác giả, tác phẩm kiến trúc, mỹ thuật ở miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954-1975; (9) Đặc điểm tác giả, tác phẩm âm nhạc ở miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954-1975. Đề án nghiên cứu đã phác thảo một cách toàn diện, hệ thống bức tranh di sản văn học, nghệ thuật ở miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954-1975 trên phương diện đặc điểm, tác giả, tác phẩm. Văn học nghệ thuật miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954-1975 là một minh chứng sâu sắc cho sức sống của văn hóa dân tộc trong bối cảnh lịch sử đặc biệt: chiến tranh, chia cắt và đô thị hóa. Đây là một di sản tinh thần quan trọng, không chỉ phản ánh tâm thức thời đại mà còn là biểu hiện bản lĩnh văn hóa, tinh thần dân tộc và khát vọng hòa bình, thống nhất quốc gia thông qua con đường nghệ thuật. Kết quả đạt được này còn là cơ sở khoa học để các cơ quan chức năng đưa ra những quyết sách về lĩnh vực văn học, nghệ thuật. |
3 | Nghiệm thu đề án khoa học cấp Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh (ĐHQG-HCM) với thông tin cụ thể như sau: Tên đề án: Tổng kết 30 năm xây dựng và phát triển của Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh Chủ nhiệm đề án: TS. Lê Hoàng Dũng Đơn vị: Trường Đại học KHXH&NV, ĐHQG-HCM Mã số: ĐA2024-18b-03 Địa điểm: Trường Đại học KHXH&NV, ĐHQG-HCM Quyết định nghiệm thu số …../QĐ-ĐHQG ngày ….. /…../2025 của Giám đốc ĐHQG-HCM; Chủ tịch Hội đồng: Tóm tắt Đề án khoa học Tính từ khi thành lập 1995 đến năm 2025, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh (ĐHQG-HCM) tròn 30 năm xây dựng và phát triển. ĐHQG-HCM đã có những bước phát triển vượt bậc, có nhiều đóng góp quan trọng vào sự nghiệp giáo dục và đào tạo của nước nhà. Trên cơ sở triển khai các kế hoạch trung hạn, dài hạn, ĐHQG-HCM dần hoàn thiện hệ thống tổ chức, hiện đại hóa mô hình quản trị đại học nhằm mục tiêu trở thành một đại học hàng đầu về đào tạo, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ đa ngành, đa lĩnh vực, chất lượng cao, ngang tầm khu vực, dần đạt trình độ quốc tế. Mô hình quản lý ĐHQG-HCM đạt được những bước tiến đáng kể, khẳng định và phát huy vai trò của các thành tố trong hệ thống, từ đó tạo nên sức mạnh của cả hệ thống. Qua 30 năm xây dựng và phát triển, ĐHQG-HCM cũng đã thể hiện được vai trò tiên phong, dẫn dắt trong các lĩnh vực đào tạo, bảo đảm chất lượng cả bậc đại học và sau đại học; nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, phục vụ cộng đồng, cũng như hợp tác đối ngoại. ĐHQG-HCM có những dấu ấn rõ rệt, được xã hội công nhận qua những đổi mới và cải tiến nổi bật trong công tác tuyển sinh người học, nhất là kỳ thi đánh giá năng lực từ năm 2018; tiên phong trong tổ chức đào tạo theo tín chỉ bậc đại học và sau đại học; tiên phong mở nhiều ngành đào tạo thí điểm nhằm đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực chất lượng cao trong quá trình phát triển và hội nhập quốc tế của Việt Nam; tiên phong đẩy mạnh liên thông và liên kết trong đào tạo; tiến hành quốc tế hóa chương trình đào tạo hướng đến hội nhập và vươn tầm thế giới; đa dạng hóa các loại hình chương trình đào tạo giúp ĐHQG-HCM làm tốt vai trò nòng cốt trong cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao và nhân tài cho quốc gia. Bên cạnh đào tạo, ĐHQG-HCM còn chú trọng đến phát triển hệ thống đảm bảo chất lượng trong hệ thống, tiên phong thực hiện đánh giá chất lượng đào tạo theo chuẩn kiểm định của Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng như các bộ tiêu chuẩn kiểm định quốc tế như AUN-QA, ABET, FIBAA, ASIIN, HCERES, v.v… Ba mươi năm qua cũng cho thấy ĐHQG-HCM thực sự trở thành trung tâm nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ của cả nước. Các chương trình hợp tác nghiên cứu với các đại học, tổ chức quốc tế, các địa phương, doanh nghiệp ngày càng phát triển mạnh mẽ. ĐHQG-HCM tiên phong trong công bố khoa học tại các hội nghị, trên tạp chí trong và ngoài nước. Các thành tích nghiên cứu đã góp phần quan trọng vào duy trì và nâng cao thứ hạng của ĐHQG-HCM trong các bảng xếp hạng quốc tế. Năm 2023 ĐHQG-HCM đạt vị trí 167 các đại học xuất sắc nhất châu Á, tiếp tục thuộc top 801-1000 các đại học tốt nhất thế giới (theo bảng xếp hạng của Tổ chức giáo dục Quacquarelli Symonds – QS). Giá trị chuyển giao công nghệ cũng tăng nhanh chóng, nếu tính từ năm 2011 đến nay tổng giá trị này của ĐHQG-HCM ước đạt 764 tỷ đồng, tăng 84% so với giai đoạn 2006–2010. Ngoài ra, ĐHQG-HCM cũng phát huy vai trò quan trọng trong tư vấn, phản biện chính sách và phục vụ cộng đồng. Với đặc thù là một đại học đa ngành, đa lĩnh vực, số lượng người học tại ĐHQG-HCM rất đông đảo và rất đa dạng. Mô hình quản trị đại học theo chiến lược đã giúp ĐHQG-HCM có những bước tiến vượt bậc trong công tác quản trị hệ thống, tối ưu hóa được nguồn lực dùng chung đồng thời vẫn giữ được bản sắc riêng và thế mạnh của từng trường thành viên. Về công tác sinh viên, việc hỗ trợ, tư vấn, quản lý sinh viên và người học được chú trọng bài bản, chặt chẽ, thiết thực. Điều đáng nói, tại đây nhiều phong trào sinh viên, phong trào phục vụ cộng đồng được khởi xướng và có sức ảnh hưởng đến xã hội như: Xuân tình nguyện, tiếp sức mùa thi, tham gia hỗ trợ phòng chống Covid-19, khởi nghiệp, v.v… Về cơ sở vật chất, ba mươi năm qua cũng cho thấy ĐHQG-HCM đã trở thành một đô thị đại học có diện tích lớn nhất cả nước. Hệ thống giao thông, nhà học, nhà luyện tập và thi đấu, phòng thí nghiệm, trang thiết bị, hệ thống ký túc xá, hệ thống dịch vụ, công viên, thư viện, v.v… đã được đầu tư ngày một khang trang, hiện đại. Tuy đã đạt được những thành tựu đáng kể nhưng ĐHQG-HCM qua 30 năm xây dựng và phát triển cũng còn nhiều vấn đề đang đặt ra, cần phải tiếp tục nghiên cứu, kiến nghị các giải pháp để tiếp tục phát triển. Với định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới, ĐHQG-HCM cần có cơ chế “vượt trội” cho phát triển, cần được tăng tính tự chủ hơn nữa trong đào tạo, NCKH, hợp tác quốc tế, huy động nguồn lực phát triển, quy hoạch và xây dựng, v.v. Để ĐHQG-HCM có thể phát huy tối đa năng lực, nguồn lực theo đúng chủ trương, định hướng và kỳ vọng của Đảng và Nhà nước về một đại học vững mạnh cấp quốc gia đại diện cho Việt Nam có thể sánh vai cùng thế giới, thì các cơ sở pháp lý để khẳng định rõ về mô hình định hướng phát triển ĐHQG-HCM trong kỷ nguyên mới cần được sớm hoàn thiện. |
4 | Nghiệm thu đề án khoa học cấp Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh (ĐHQG-HCM) với thông tin cụ thể như sau: Tên đề án: Xây dựng và phát triển sản phẩm du lịch cộng đồng của người Xơ Đăng ở thôn Kon Jong, xã Ngọk Réo, huyện Đăk Hà, tỉnh Kon Tum Chủ nhiệm đề án: GS.TS. Ngô Thị Phương Lan Đơn vị: Trường Đại học KHXH&NV, ĐHQG-HCM Mã số: ĐA2024-18b-04 Địa điểm: Trường Đại học KHXH&NV, ĐHQG-HCM Quyết định nghiệm thu số …../QĐ-ĐHQG ngày ….. /…../2025 của Giám đốc ĐHQG-HCM; Chủ tịch Hội đồng: Tóm tắt Đề án khoa học Đề án “Xây dựng và phát triển sản phẩm du lịch cộng đồng của người Xơ Đăng ở thôn Kon Jong, xã Ngọk Réo, huyện Đắk Hà, tỉnh Kon Tum” đã đạt được mục tiêu xây dựng một sản phẩm du lịch dựa trên sự kết hợp giữa các yếu tố nội lực và ngoại lực, nhằm cải thiện hiện trạng sản phẩm du lịch hiện có và phát triển sản phẩm theo kế hoạch dài hạn. Đề án áp dụng mô hình hợp tác ba nhà giữa nhà nước, nhà khoa học/tư vấn và người dân, qua đó tạo ra các sản phẩm du lịch cộng đồng đáp ứng kỳ vọng và mục tiêu của các bên liên quan, với tính khả thi và ứng dụng cao. Sản phẩm du lịch được thiết kế chủ yếu theo mô hình du lịch sinh thái văn hóa, với điểm nhấn là Suối Đăk Lôi, nơi du khách có thể trải nghiệm hoạt động gắn kết với thiên nhiên và văn hóa cộng đồng người Xơ Đăng. Các hoạt động du lịch bao gồm tham quan cảnh quan, thưởng thức ẩm thực truyền thống, tham gia múa xoang, nghe kể sử thi, và trải nghiệm các sản phẩm thủ công như dệt, rèn. Đặc biệt, sản phẩm còn lồng ghép các giá trị văn hóa địa phương qua các trưng bày trang phục, nông cụ và các sản phẩm đặc sản như măng le, rượu ghè, trà dược liệu. Để đảm bảo sự bền vững của mô hình du lịch, đề án đã xây dựng cơ chế quản lý cộng đồng dựa trên mô hình hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp. Mặc dù mô hình này hứa hẹn sẽ bảo vệ quyền lợi cộng đồng, nhưng đề án cũng khuyến nghị cần có sự giám sát, hỗ trợ từ chính quyền địa phương để giải quyết các mâu thuẫn lợi ích có thể phát sinh. Đề án đã triển khai các hoạt động hỗ trợ, bao gồm việc thiết kế bộ nhận diện thương hiệu cho sản phẩm du lịch và tổ chức các lớp tập huấn nâng cao năng lực cho người dân về quản lý và phục vụ du khách. Hệ thống truyền thông đã được phát triển, bao gồm các video quảng bá, fanpage “Du lịch Kon Jong”, nhằm quảng bá điểm đến và các hoạt động du lịch. Đồng thời, sản phẩm du lịch đã được chuyển giao cho chính quyền địa phương qua 9 nội dung quan trọng, bao gồm báo cáo kiến nghị, chương trình tour du lịch, và bộ sản phẩm truyền thông. Nhìn chung, đề án là một minh chứng cho sự hiệu quả của mô hình hợp tác ba nhà trong phát triển du lịch cộng đồng, tạo ra sản phẩm du lịch toàn diện với tính khả thi cao và kết hợp giữa lý thuyết và thực tiễn. Sự phối hợp chặt chẽ giữa các bên đã góp phần tạo ra nguồn lực chung, đồng thời nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch, đem lại lợi ích lâu dài cho cộng đồng người Xơ Đăng tại thôn Kon Jong. |
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG-HCM