KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

6 định hướng hoạt động khoa học công nghệ phát triển bền vững vùng Đồng bằng sông Cửu Long

Sáng 29/9, Ban Kinh tế Trung ương phối hợp ĐHQG-HCM tổ chức trực tiếp kết hợp trực tuyến tọa đàm: “Bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045”. Gần 200 đại biểu là lãnh đạo trung ương, 13 tỉnh/thành vùng Tây Nam bộ, các nhà khoa học trong nước và quốc tế tham dự.

Đầu cầu tọa đàm tại TP.HCM.

Cần mang tính liên ngành, liên vùng

Phát biểu tại tọa đàm, PGS.TS Huỳnh Thành Đạt – Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ, cho biết một trong những định hướng trọng tâm mà Bộ đã tập trung ưu tiên nguồn lực cho các hoạt động nghiên cứu thời gian qua là nhằm cung cấp những luận cứ khoa học và đề xuất các mô hình thực tiễn để phục vụ phát triển bền vững vùng ĐBSCL một cách bài bản với tầm nhìn dài hạn.

“Các chương trình KH&CN của Bộ đã huy động hàng nghìn chuyên gia đến từ các viện nghiên cứu, trường đại học trong nước và quốc tế. Qua đó, nhiều kết quả nghiên cứu từ các chương trình này được các địa phương tích cực triển khai, điển hình như: mô hình chuyển đổi trồng rừng hiệu quả thấp sang trồng rừng, kết hợp nuôi trồng thủy sản hiệu quả cao thích ứng với xâm nhập mặn tại các huyện Ba Tri, Bình Đại, Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre; mô hình chuyển đổi diện tích lúa thường bị nhiễm mặn hiệu quả thấp sang nuôi trồng thủy sản thâm canh đạt hiệu quả cao tại các huyện Châu Thành, Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh; mô hình chuyển đổi trồng lúa hiệu quả thấp sang nuôi trồng phối hợp lúa-cá-vịt hiệu quả cao tại các huyện Tam Nông, Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp…” – PGS.TS Huỳnh Thành Đạt nhận định.

Theo Bộ trưởng Bộ KH&CN, các hoạt động khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo phục vụ phát triển bền vững ĐBSCL trong thời gian tới cần thực hiện 6 định hướng cơ bản sau.

Thứ nhất, hình thành các dự án, nhiệm vụ KH&CN lớn mang tính liên ngành, liên vùng để nghiên cứu, giải quyết những vấn đề lớn, bức thiết, có tính hệ thống của khu vực.

Thứ hai, xây dựng, lắp đặt hệ thống đo đạc, giám sát tự động các thông số về môi trường, thổ nhưỡng, khí hậu, thuỷ văn… để kịp thời thông tin, chủ động phục vụ công tác dự báo và triển khai các biện pháp ứng phó phù hợp với từng giai đoạn, nhất là ứng phó với tác động của thời tiết cực đoan; đẩy mạnh đầu tư ứng dụng và nhân rộng các mô hình chuyển đổi cơ cấu cây trồng, đặc biệt vùng không chủ động nguồn nước, thường xuyên xảy ra hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn sang phát triển nông nghiệp đa dạng (gồm thủy sản – cây ăn quả – lúa), đáp ứng nhu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu;

Thứ ba, tập trung nghiên cứu đề xuất giải pháp KH&CN đảm bảo nguồn nước lâu dài, cấp nước ngọt chủ động cho các vùng khan hiếm nước ven biển ĐBSCL (như xây dựng các hồ trữ nước ngọt từ hệ thống sông, kênh và khai thác nước ngầm tại các khu vực nguồn nước ngầm bảo đảm về chất lượng, trữ lượng với quy mô khác nhau; hệ thống khử nước mặn sử dụng năng lượng tái tạo…);

Thứ tư, sớm đưa vào ứng dụng thực tiễn các kết quả thành công của các nhiệm vụ KH&CN về các giải pháp chống sạt lở bờ biển, bờ sông thuộc Chương trình KH&CN phục vụ phát triển bền vững vùng Tây Nam bộ. Chương trình cần tiếp tục nghiên cứu các giải pháp KH&CN có tính tổng thể (trong đó chú trọng đảm bảo an toàn hạ tầng thủy lợi vùng ĐBSCL trong điều kiện hạn mặn kéo dài);

Thứ năm, đề nghị TP Cần Thơ nghiên cứu việc thành lập Trung tâm nghiên cứu, tiếp nhận và chuyển giao công nghệ nhằm đẩy mạnh việc tiếp nhận, nghiên cứu phát triển, ứng dụng tiến bộ KH&CN và đổi mới sáng tạo phục vụ phát triển kinh tế – xã hội (KTXH) của cả vùng ĐBSCL, trong đó, chú trọng lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn;

Thứ sáu, các tỉnh trong Vùng ĐBSCL cần chú trọng đầu tư cho các trường đại học, viện nghiên cứu trong vùng (như Trường ĐH Cần Thơ, Trường ĐH An Giang, Trường ĐH Bạc Liêu, Trường ĐH Kiên Giang, Phân hiệu của ĐHQG-HCM tại tỉnh Bến Tre, các Viện nghiên cứu tại ĐBSCL…) để phát huy hiệu quả thế mạnh nghiên cứu, cùng đồng hành với các doanh nghiệp – được xem là trung tâm của các hoạt động ứng dụng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo. Liên kết này dưới sự hỗ trợ của nhà nước qua những cơ chế, chính sách vượt trội, phù hợp sẽ tạo ra năng lượng cộng hưởng lớn, tác động tích cực đến sự phát triển KTXH của vùng.

Vùng trũng về đô thị hóa

Các cử tọa lắng nghe chuyên gia trình bày tham luận.

TS Nguyễn Thành Phong – Phó Trưởng ban Kinh tế Trung ương, cho rằng bên cạnh những mặt tích cực, hiệu quả, vùng ĐBSCL còn tồn tại một số khó khăn, hạn chế. Trước tiên, dù là vùng đất được thiên nhiên ưu đãi nhưng khu vực này vẫn chưa đem lại được sự thịnh vượng cho phần lớn người dân. Tăng trưởng kinh tế chưa ổn định, vững chắc, chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của vùng; cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm.

Đồng thời, kinh tế khu vực này chủ yếu phát triển theo chiều rộng, dựa vào khai thác các tiềm năng sẵn có là chính. Hệ thống kết cấu hạ tầng còn kém phát triển, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế. Công tác quy hoạch còn chậm, tính khả thi chưa cao. Việc sử dụng nguồn lực, nhất là nội lực cho đầu tư phát triển còn hạn chế; công tác thu hút đầu tư nước ngoài (FDI) trong toàn vùng đạt thấp. vùng Đồng bằng sông Cửu Long hiện là ‘vùng trũng’ về đô thị hóa ở Việt Nam.

“Do đó, kết quả của Tọa đàm là hết sức quan trọng, đóng góp hiệu quả để Tổ Biên tập Đề án có được những ý tưởng hay, mang tính đột phá. Từ đó đưa vào Báo cáo tổng kết và tham mưu cho Bộ Chính trị, Ban Bí thư ra được Nghị quyết mới, làm cơ sở để vùng Đồng bằng sông Cửu Long có bước phát triển mới trong giai đoạn tới đây” – TS Nguyễn Thành Phong đánh giá.

Phó Trưởng ban Kinh tế Trung ương cũng cho biết ông đánh giá cao quá trình xây dựng, chuẩn bị kế hoạch tọa đàm của ĐHQG-HCM từ khâu lựa chọn chủ đề, lựa chọn chuyên gia, khách mời, chuẩn bị tham luận đến triển khai kế hoạch tổ chức tọa đàm trong tình hình đại dịch COVID-19 còn nhiều diễn biến phức tạp.

Theo PGS.TS Vũ Hải Quân – Giám đốc ĐHQG-HCM, ĐHQG-HCM được Bộ Khoa học và Công nghệ giao cùng với Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam đồng chủ trì Chương trình KH&CN phục vụ phát triển bền vững vùng Tây Nam Bộ giai đoạn 2014 – 2019 (gia hạn đến tháng 06/2021).

Đây là một chương trình nghiên cứu – chuyển giao, ứng dụng tổng hợp, liên ngành nhằm giải quyết có hiệu quả các vấn đề cấp bách, phức tạp đang đặt ra trong thực tiễn phát triển bền vững của vùng Tây Nam bộ và góp phần thực hiện thành công Nghị quyết số 120/NQ-CP về phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu.

“Những kết quả từ Tọa đàm là nguồn thông tin rất có giá trị phục vụ đề án Tổng kết Nghị quyết số 21-NQ/TW và xây dựng chiến lược phát triển phát triển bền vững vùng Tây Nam bộ đến năm 2030 và tầm nhìn đến 2045” – PGS.TS Vũ Hải Quân cho biết.

Tọa đàm đã lắng nghe nhiều tham luận giá trị đến từ các chuyên gia như Các giải pháp nhằm bảo vệ tài nguyên và ứng phó với biến đổi khí hậu vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 của GS.TS Lê Thanh Hải – Viện trưởng Viện Môi trường và Tài nguyên ĐHQG-HCM; Đồng bằng sông Cửu Long – Thách thức và giải pháp của GS.TS. Đào Xuân Học, Nguyên Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn; Một số giải pháp phát triển nông nghiệp bền vững trong bối cảnh biến đổi khí hậu tại tỉnh Bến Tre của ông Nguyễn Văn Buội, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, tỉnh Bến Tre…

PHAN YÊN

Scroll to Top