Thay đổi chính sách tài khóa để phục hồi kinh tế hậu COVID-19*
Việt Nam đã đưa ra gói kích thích tài khóa gồm giảm thuế và tiền thuê đất với quy mô 180 ngàn tỷ đồng, chi tiền mặt cho an sinh xã hội lên đến 62.000 tỷ đồng, giảm giá điện với tổng trị giá 11.000 tỷ đồng và hoãn đóng bảo hiểm xã hội trị giá 9.500 tỷ đồng. Tính tổng thể quy mô gói kích thích tài khóa của Việt Nam tương đương 4,3% GDP và xấp xỉ các nền kinh tế mới nổi khác cũng như các quốc gia đang phát triển trong khu vực.
Tuy nhiên, các chính sách nêu trên chỉ mới dừng lại ở mức độ cứu trợ khẩn cấp (ngắn hạn, tức thời) trong khi tác động COVID-19 sẽ còn kéo dài. Dự báo của IMF cho thấy GDP toàn cầu sẽ tăng trưởng thấp trong năm 2020, có thể kéo dài đến năm 2021. Vì vậy, Chính phủ phải tính đến các chính sách để tiếp tục vực dậy nền kinh tế và sau đó là hồi phục và phát triển.
Chính sách tài trợ thâm hụt
Dưới góc độ chính sách kinh tế vĩ mô, nhiều nhà kinh tế cho rằng để giải quyết cuộc khủng hoảng do đại dịch COVID-19 gây ra cần sử dụng công cụ chính là chính sách tài khóa còn chính sách tiền tệ sẽ đóng vai trò hỗ trợ. Các nhà phân tích chính sách ở hầu hết quốc gia đều thống nhất về sự cần thiết của việc sử dụng ngân sách để cứu trợ doanh nghiệp, người dân và nền kinh tế. Các gói kích kích kinh tế khổng lồ đã được đưa ra, thậm chí tiền tệ hóa thâm hụt ngân sách trong hoàn cảnh hiện tại cũng là lựa chọn của nhiều nước.
Để đáp ứng cho các khoản chi từ ngân sách nhà nước, chúng tôi đưa ra khung phân tích các lựa chọn tài trợ thâm hụt cho Việt Nam theo các tiêu chuẩn gồm: Tái phân bổ chi tiêu, thuế, vay nợ, chuyển nhượng tài sản công và tiền tệ hóa thâm hụt.
Trước nhất, tái phân bổ chi tiêu là việc điều chỉnh chi tiêu liên quan dự toán ngân sách hiện tại và được thực hiện trong các trường hợp: Căng thẳng tài chính, thặng dư tài khóa, chương trình bội chi ưu tiên, uu tiên chính trị mới và thay thế đầu vào.
Hiện nay, việc tái phân bổ chi tiêu tại Việt Nam được thúc đẩy bởi nhiều tác động ở cả phía cung và cầu. Đó là giảm nguồn thu ngân sách trong năm 2020 do doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong sản xuất, kinh doanh, hoạt động xuất nhập khẩu; bên cạnh đó, giá dầu sụt giảm cũng tạo nhiều tác động đáng kể. Chính phủ có thể tái phân bổ chi tiêu bằng cách cắt giảm chi thường xuyên và chuyển các khoản này cho an sinh xã hội. Như vậy, xét về các tác động của chính sách, thời gian huy động nguồn lực, việc tái phân bổ chi tiêu là hoàn toàn có thể đáp ứng.
Hiện tại không gian cho chính sách thuế là không nhiều do sự thu hẹp hoạt động của các khu vực và thành phần kinh tế. Chính phủ cũng đang thực hiện việc hoãn và miễn giảm thuế để hỗ trợ cho doanh nghiệp. Trong khi đó, vay nợ là một nguồn tài chính tiềm năng. Bộ Tài chính đang đàm phán với các tổ chức như Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Ngân hàng Thế giới và Ngân hàng Phát triển châu Á để vay 1 tỷ USD. Mặt khác, trong bối cảnh khả năng vay từ thị trường quốc tế của các nền kinh tế mới nổi như Việt Nam đang gặp các hạn chế, việc phát hành trái phiếu cho nhà đầu tư trong nước có thể là một lựa chọn. Tuy nhiên, việc đi vay nợ sẽ gặp rào cản là tính bền vững của nợ công khi tỷ lệ nợ công/GDP đang bị khống chế ở mức 65% (tỷ lệ nợ công năm 2019 ước tính là 56,1% GDP). Do vậy, việc nâng trần nợ công cũng cần được xem xét trong bối cảnh tác động của COVID-19. Đồng thời, để thu hút các nhà đầu tư trong nước mua trái phiếu trong giai đoạn này, Chính phủ có thể cân nhắc việc phát hành trái phiếu có lãi suất điều chỉnh theo mức độ lạm phát.
Đối với chuyển nhượng các tài sản công, Chính phủ nên tài trợ cho thâm hụt ngân sách thông qua chuyển nhượng loại tài sản này. Theo kế hoạch, Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) sẽ thoái vốn tại 85 doanh nghiệp trong năm 2020 với giá trị vốn điều lệ hơn 16.720 tỷ đồng, trong đó nhiều doanh nghiệp đang niêm yết với giá trị vốn hóa thị trường lớn. Vấn đề đặt ra là thời gian để thực hiện việc này khi trong năm 2019, SCIC chỉ thoái vốn được 82 tỷ đồng tại 12 doanh nghiệp, thu về cho Nhà nước 314 tỷ đồng, gấp 3,8 lần giá trị vốn bán ra.
Tiền tệ hóa thâm hụt là phương thức tài trợ thâm hụt ngân sách đang được sử dụng tại các quốc gia phát triển như Hoa Kỳ, châu Âu, Anh, Nhật và các quốc gia đang phát triển như Indonesia và Ấn Độ… Việc thực hiện phương thức này đòi hỏi phải xác định lượng tiền cung ứng, thời gian thực hiện cũng như những hậu quả không mong muốn ở hiện tại hay tương lai.
Tiền tệ hóa thâm hụt cần dựa trên mô hình kinh tế vĩ mô chứ không thể dựa trên mô hình phân tích kinh tế đơn giản. Tuy vậy, đây là một sự đánh đổi đặt ra cho Việt Nam khi thực hiện chính sách này, đó là hồi phục kinh tế và chấp nhận các rủi ro kèm theo.
Chính sách tài khóa ngắn và trung hạn
Đối với chính sách tài khóa ngắn hạn, Chính phủ cần cho phép hạch toán đầy đủ chi phí lương. Theo đó, doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ hạch toán đầy đủ chi phí liên quan tiền lương, tiền công và các khoản có liên quan tiền lương, tiền công phát sinh trong năm 2020. Điều kiện để hưởng chính sách này là các doanh nghiệp không được sa thải người lao động và không được giảm lương người lao động trong năm 2020 cho đến hết năm 2021.
Thứ đến, phải nhanh chóng chi ngân sách nhà nước cho đầu tư công. Cụ thể là khơi thông khối tiền đầu tư công 700.000 tỷ đồng trong năm 2020. Theo thông tin từ Chính phủ và Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tổng số vốn nhà nước ở trung ương và địa phương có thể bơm vào nền kinh tế trong năm 2020 xấp xỉ 700.000 tỷ đồng gồm vốn phát sinh trong năm 2020 khoảng 135.000 tỷ đồng và vốn của kế hoạch các năm trước được chuyển nguồn thực hiện ở năm 2020 khoảng 565.000 tỷ đồng. Như vậy, nếu theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, địa phương nào giải ngân dưới 60% sẽ bị cắt giảm vốn và tạm ứng 20% vốn phát sinh năm 2020, thì tổng khối lượng tiền đầu tư công các năm trước và năm 2020 được giải ngân trong nửa cuối năm 2020 là 366.000 tỷ đồng, xấp xỉ 15,6 tỷ USD.
Tuy nhiên, thông tin từ Kho bạc Nhà nước cho biết đến hết tháng 3/2020, giải ngân vốn đầu tư xây dựng cơ bản đạt 57.500 tỷ đồng chỉ bằng 12,8% kế hoạch giao. Giải ngân vốn đầu tư xây dựng cơ bản bằng nguồn ODA và vay ưu đãi nước ngoài còn thấp hơn. Lũy kế đến ngày 31/3/2020 mới được hơn 2.666 tỷ đồng trên tổng số vốn được giao cả năm là 56.700 tỷ đồng, tỷ lệ đạt 5%. Ngoài ra, nguyên nhân làm chậm tiến độ giải ngân những tháng đầu năm 2020 là chủ đầu tư chưa đến giao dịch mở tài khoản và thanh toán tại Kho bạc Nhà nước.
Về chính sách tài khóa trung hạn, cần cho phép doanh nghiệp chuyển lỗ về năm trước. Việc doanh nghiệp hạch toán đầy đủ chi phí liên quan tiền lương, tiền công và các khoản có liên quan tiền lương, tiền công trong bối cảnh không có doanh thu sẽ tạo ra một khoản lỗ đối với doanh nghiệp. Theo quy định hiện hành, các doanh nghiệp được chuyển lỗ về sau không quá 5 năm. Do đó Bộ Tài chính nghiên cứu cho phép doanh nghiệp chủ động chuyển lỗ về năm trước (2019 và 2018) hoặc năm sau (2021, 2022 và 2023) trong hạn định 5 năm. Chuyển lỗ về trước bằng cách hạch toán lỗ kinh doanh ròng phát sinh trong năm tài chính 2020 vào thu nhập tính thuế được báo cáo trong những năm trước, dẫn đến khoản hoàn thuế (tạo dòng tiền vào). Chuyển lỗ về sau sẽ dẫn đến giảm thuế thu nhập doanh nghiệp (ngăn dòng tiền ra).
Đồng thời, cần bố trí một khoản mục chi tái thiết kinh tế trong dự toán ngân sách giai đoạn 2021-2026. Ở phía khu vực doanh nghiệp, khủng hoảng COVID-19 cũng là một dịp sàng lọc doanh nghiệp, nói cách khác là nền kinh tế tự tái thiết. Nền kinh tế tự tái thiết kinh tế (tái thiết tự nhiên) và chính phủ tái thiết kinh tế (tái thiết chủ động) sẽ tôi luyện doanh nghiệp thêm bản lĩnh cũng như lọc bỏ những doanh nghiệp yếu kém, không tôn trọng luật pháp và gây nguy hại môi trường.
Các tiền tệ, tài khóa và an sinh xã hội vừa qua của Chính phủ chỉ ngăn chặn sự suy thoái sâu của nền kinh tế Việt Nam. Để vực dậy nền kinh tế, Chính phủ cần bố trí hằng năm trong giai đoạn ngân sách 2021-2026 một khoản dự toán chi tái thiết. Khoản dự chi này nằm trong khoản mục “Chi đầu tư phát triển” dưới hình thức hỗ trợ lãi suất, giảm và giãn thuế… Trên thực tế, TP.HCM đã có chương trình kích cầu đầu tư hay cấp bù lãi vay kích cầu từ nhiều năm.
Tựu trung, khi tái thiết kinh tế, Chính phủ cần xem xét mở rộng ngành nghề, nâng số vốn cho vay từ chương trình kích cầu đầu tư để chương trình có hiệu quả lan tỏa trên mọi lĩnh vực. Cùng với đó là cải cách các thủ tục hành chính để các doanh nghiệp được tiếp cận với nguồn vốn thuận lợi hơn.
TS TRẦN HÙNG SƠN