Lịch họp Hội đồng nghiệm thu đề tài/ đề án KH&CN cấp ĐHQG-HCM tháng 11/2025 – Trường Đại học Kinh tế – Luật, ĐHQG-HCM

STT

Tên đề tài

1

Nghiệm thu đề tài khoa học và công nghệ cấp Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh (ĐHQG-HCM) với thông tin cụ thể như sau:

Tên đề tài: Chế định tài sản tín thác: Kinh nghiệm nước ngoài và khả năng vận dụng vào thực tiễn Việt Nam”

Chủ nhiệm đề tài: PGS.TS Nguyễn Ngọc Điện

Đơn vị: Trường Đại học Kinh tế – Luật

Mã số: C2023-34-03

Địa điểm: Trường Đại học Kinh tế – Luật

Quyết định nghiệm thu số …../QĐ-ĐHQG ngày ….. /…../2025 của Giám đốc ĐHQG-HCM;

Chủ tịch Hội đồng: 

Tóm tắt Đề tài

        Tín thác đã hình thành, phát triển và trở nên phổ biến từ rất lâu trên thế giới. Các vấn đề trong thực tiễn của các nước Anh, Mỹ, liên quan đến việc quản trị tài sản và dẫn đến việc dùng tín thác để xử lý vướng mắc, cũng xuất hiện ở Việt Nam: đứng tên hộ để mua tài sản; quản lý di sản gồm nhiều tài sản có công dụng chuyên môn đặc thù; quản lý di sản để lại cho người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi; chuyển tiền nhầm tài khoản; gửi tiền cho người khác làm từ thiện;… Nếu có thể dùng tín thác để xử lý các vấn đề này ở Việt Nam thì hệ thống pháp luật có thể hoàn thiện hơn. Tuy nhiên, thực tế có nhiều trở ngại nếu muốn vận dụng các thành tựu liên quan đến tín thác tại Việt Nam. Nghiên cứu tìm hiểu và tóm tắt chân dung xã hội và pháp lý của tín thác trong quá khứ và cuộc sống hiện đại; đồng thời phân tích sự vận dụng chế định tín thác trong điều kiện hệ thống pháp luật của nước Pháp. Từ đó, đề tài trình bày khả năng vận dụng Tín thác-Trust vào việc hoàn thiện hệ thống pháp luật tài sản Việt Nam

 

2

Nghiệm thu đề tài khoa học và công nghệ cấp Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh (ĐHQG-HCM) với thông tin cụ thể như sau:

Tên đề tài: Khung pháp lý cho Thị trường mua bán phát thải tại Việt Nam: Cơ sở lý luận và đề xuất chính sách định hướng liên kết với thị trường quốc tế

Chủ nhiệm đề tài: TS Đào Gia Phúc

Đơn vị: Trường Đại học Kinh tế – Luật

Mã số: C2023-34-02

Địa điểm: Trường Đại học Kinh tế – Luật

Quyết định nghiệm thu số …../QĐ-ĐHQG ngày ….. /…../2025 của Giám đốc ĐHQG-HCM;

Chủ tịch Hội đồng: 

Tóm tắt Đề tài

Thị trường mua bán phát thải (Emission Trading System – ETS) là một công cụ kinh tế hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính thông qua cơ chế thị trường. Mô hình hoạt động phổ biến của ETS là “Giới hạn và Giao dịch” (Cap and Trade), theo đó cơ quan có thẩm quyền đặt ra giới hạn phát thải (cap) và phân bổ hoặc bán giấy phép phát thải cho các doanh nghiệp. Tổng lượng giấy phép phát hành hằng năm không vượt quá giới hạn phát thải quốc gia và được giảm dần theo thời gian. Doanh nghiệp có thể giao dịch các giấy phép này: doanh nghiệp phát thải vượt hạn mức phải mua thêm giấy phép, trong khi doanh nghiệp giảm phát thải được phép bán phần dư. Cơ chế này định giá cacbon theo quy luật thị trường, người gây ô nhiễm phải trả tiền, còn người giảm phát thải được hưởng lợi, từ đó tạo động lực đổi mới công nghệ và sử dụng năng lượng sạch (Newell & Stavins, 2003; Tietenberg, 2005, 2006; Teixidó et al., 2019).

Trên thế giới, ETS được áp dụng hơn 30 năm tại Hoa Kỳ, Liên minh châu Âu, Nhật Bản và gần đây mở rộng sang nhiều quốc gia khác như Trung Quốc, Mexico, Indonesia. Các nghiên cứu từ Pigou (1932), Coase (1960), Dales, (1968) thống nhất rằng định giá cacbon, thông qua thuế hoặc thị trường phát thải là giải pháp thiết thực để chuyển chi phí xã hội của biến đổi khí hậu cho các chủ thể phát thải, buộc họ chủ động cắt giảm khí thải. Theo Nordhaus (2017), “chi phí xã hội của cacbon” phản ánh giá trị thiệt hại môi trường do phát thải thêm một tấn CO₂, là cơ sở để xây dựng chính sách chống biến đổi khí hậu. Stern (2007) và Dietz & Stern (2008) khẳng định việc đầu tư thích ứng và giảm phát thải vừa giảm chi phí xã hội vừa mang lại lợi ích kinh tế dài hạn. ETS còn tạo nguồn thu cho ngân sách để tái đầu tư vào các sáng kiến xanh, đồng thời thúc đẩy đổi mới sáng tạo, thể hiện qua số lượng bằng sáng chế tăng mạnh tại các khu vực có giá cacbon ổn định (WEF, 2017). Tuy nhiên, hiệu quả ETS phụ thuộc vào khung thể chế, tính linh hoạt chính sách và sự đồng thuận chính trị (Schmalensee & Stavins, 2017; Pérez Henríquez, 2013).

Tại Việt Nam, sau cam kết Net Zero năm 2050 tại COP26, nhu cầu xây dựng và phát triển ETS trở nên cấp thiết. Quyết định 896/QĐ-TTg năm 2022 phê duyệt Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu giai đoạn đến năm 2050 đặt mục tiêu giảm 43,5% tổng phát thải vào năm 2030 và đạt phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050. Theo Luật Bảo vệ môi trường 2020, Nghị định 06/2022/NĐ-CP, Nghị định 119/2025/NĐ-CP, Bộ Nông nghiệp và Môi trường chịu trách nhiệm kiểm kê khí nhà kính, phân bổ hạn ngạch và tổ chức thị trường các-bon trong nước. Theo đó, thị trường thí điểm sẽ được vận hành đến hết năm 2028, giai đoạn 2029 trở đi sẽ vận hành chính thức. Đến nay, Việt Nam đã có 2.166 cơ sở phải kiểm kê khí nhà kính (Quyết định 13/2024/QĐ-TTg), chiếm khoảng 30% tổng phát thải quốc gia, và dự kiến sẽ phân bổ hạn ngạch phát thải khí nhà kính cho các cơ sở từ năm 2026.

Trên phương diện học thuật, số lượng nghiên cứu trong nước về ETS vẫn còn hạn chế. Một số công trình như “Sự cần thiết hình thành thị trường cacbon tại Việt Nam” (Nguyễn Thị Liễu et al.), “Thị trường mua bán phát thải: Kinh nghiệm quốc tế và định hướng cho Việt Nam” (Đào Gia Phúc), hay “Thị trường mua bán phát thải của Liên minh châu Âu và một số đề xuất cho Việt Nam” (Đào Gia Phúc, Phạm Lộc Hà) mới dừng ở mức mô tả và định hướng. Việt Nam hiện chưa có nghiên cứu toàn diện về khung pháp lý cho ETS, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến quyền sở hữu, cơ chế phân bổ hạn ngạch, giám sát thị trường và liên kết quốc tế. Do đó, việc phát triển nghiên cứu chuyên sâu nhằm xây dựng khung pháp lý vững chắc cho ETS là yêu cầu cấp thiết, góp phần giúp Việt Nam thực hiện hiệu quả các cam kết quốc tế và thúc đẩy chuyển đổi sang nền kinh tế cacbon thấp.

3

Nghiệm thu đề tài khoa học và công nghệ cấp Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh (ĐHQG-HCM) với thông tin cụ thể như sau:

Tên đề tài: Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp, chất lượng thông tin báo cáo tài chính và hiệu quả đầu tư tại các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam

Chủ nhiệm đề tài: TS Nguyễn Vĩnh Khương

Đơn vị: Trường Đại học Kinh tế – Luật

Mã số: B2024-34-01

Địa điểm: Trường Đại học Kinh tế – Luật

Quyết định nghiệm thu số …../QĐ-ĐHQG ngày ….. /…../2025 của Giám đốc ĐHQG-HCM;

Chủ tịch Hội đồng: 

Tóm tắt Đề tài

Nghiên cứu này phân tích tác động của Trách nhiệm Xã hội Doanh nghiệp (CSR) đối với hiệu quả đầu tư tại Việt Nam, trong bối cảnh nền kinh tế thị trường đang phát triển. Mặc dù CSR đã nhận được sự quan tâm ngày càng tăng, nhưng cho đến nay vẫn thiếu các nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam đánh giá rõ ràng vai trò của CSR đối với hiệu quả đầu tư của doanh nghiệp. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng công bố thông tin CSR có tác động tích cực và có ý nghĩa thống kê đối với cả chất lượng báo cáo tài chính và hiệu quả đầu tư của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp có công bố thông tin CSR minh bạch không chỉ giúp nâng cao chất lượng báo cáo tài chính mà còn phân bổ nguồn lực hiệu quả hơn, từ đó cải thiện hiệu quả đầu tư. Bên cạnh đó, nghiên cứu còn chỉ ra rằng chất lượng báo cáo tài chính đóng vai trò trung gian quan trọng giữa công bố thông tin CSR và hiệu quả đầu tư. Chất lượng báo cáo tài chính tốt sẽ giúp giảm bất cân xứng thông tin, tối ưu hóa quá trình phân bổ vốn và tăng cường sự minh bạch của các doanh nghiệp. Điều này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh thị trường Việt Nam, nơi mà sự minh bạch và khả năng bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư còn hạn chế. Các kết quả nghiên cứu cung cấp những hàm ý quan trọng đối với doanh nghiệp, nhà đầu tư và cơ quan quản lý, khuyến khích việc tăng cường minh bạch thông tin và cải thiện chất lượng báo cáo tài chính để thúc đẩy hiệu quả đầu tư. Nghiên cứu này cũng cho thấy rằng việc thúc đẩy CSR và công bố thông tin liên quan đến trách nhiệm xã hội có thể là một phương pháp hiệu quả để nâng cao hiệu quả đầu tư và thúc đẩy phát triển bền vững trong môi trường đầu tư tại Việt Nam.

Trường Đại học Kinh tế – Luật, ĐHQG-HCM

Lên đầu trang